Dụng cụ tử cung là gì? Các công bố khoa học về Dụng cụ tử cung

Dụng cụ tử cung là các công cụ hoặc thiết bị y tế được sử dụng trong các thủ tục liên quan đến tử cung, như chẩn đoán bệnh, điều trị và phẫu thuật. Các dụng cụ ...

Dụng cụ tử cung là các công cụ hoặc thiết bị y tế được sử dụng trong các thủ tục liên quan đến tử cung, như chẩn đoán bệnh, điều trị và phẫu thuật. Các dụng cụ này bao gồm các loại máy siêu âm, cản ánh sáng, cụm khám tử cung, bộ lau, ống nội soi, và các thiết bị hút, châm tia laser, và cắt bỏ vi khuẩn.
Dụng cụ tử cung gồm một loạt các thiết bị y tế và công cụ được sử dụng để kiểm tra, điều trị và phẫu thuật liên quan đến tử cung. Dưới đây là một số chi tiết về một số dụng cụ tử cung phổ biến:

1. Máy siêu âm: Máy siêu âm tử cung được sử dụng để tạo ra hình ảnh bên trong tử cung, giúp bác sĩ xác định kích thước và cấu trúc của tử cung, các vết thương, khối u, polyp và các vấn đề khác.

2. Cản ánh sáng: Cản ánh sáng là một thiết bị màu đỏ nhỏ được sử dụng để xem kỹ hơn các vùng có vấn đề trong tử cung. Nó thường được sử dụng để phát hiện và chẩn đoán các dị tật và ung thư tử cung.

3. Cụm khám tử cung: Cụm khám tử cung gồm một cây thẳng được sử dụng để đặt vào tử cung qua âm đạo để kiểm tra và thu thập mẫu từ bên trong tử cung cho các xét nghiệm khác nhau, như nhồi máu tử cung, vi khuẩn và xét nghiệm giò.

4. Ống nội soi: Đây là một thiết bị dẻo và uốn cong được sử dụng để xem bên trong tử cung. Nó thường được đặt qua âm đạo và hiển thị hình ảnh lên một màn hình nhỏ để bác sĩ có thể xem và làm rõ các vấn đề trong tử cung.

5. Thiết bị hút: Thiết bị hút được sử dụng để loại bỏ các cục máu, dịch và mô tử cung không cần thiết hoặc bị tổn thương. Đây thường là một phương pháp liên quan đến các quá trình như hút nút tử cung (hút chảy máu dịch tử cung) hoặc hút bào thai trong quá trình phá thai.

6. Châm tia laser và cắt bỏ vi khuẩn: Trong một số trường hợp, việc chìa laser vào tử cung được sử dụng để loại bỏ các mô ung thư hoặc cắt bỏ vi khuẩn tử cung không cần thiết.

Các dụng cụ này được sử dụng trong các quá trình chẩn đoán, điều trị và phẫu thuật tử cung để kiểm tra và điều trị các vấn đề liên quan đến sức khỏe nữ và tử cung. Tuy nhiên, việc sử dụng dụng cụ tử cung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và được quyết định bởi bác sĩ chuyên khoa.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "dụng cụ tử cung":

TÀI NGUYÊN GEN DI TRONG THỰC PHẨM VÀ NÔNG NGHIỆP: Đánh giá khả năng cung ứng toàn cầu Dịch bởi AI
Annual Review of Environment and Resources - Tập 29 Số 1 - Trang 143-179 - 2004

▪ Tóm tắt  Tài nguyên gen thực vật cung cấp nền tảng sinh học cho nông nghiệp và sản xuất thực phẩm. Không quốc gia nào có thể tự chủ về những tài nguyên này. Mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia là rất cao. Những trở ngại chính sách trong việc tiếp cận có thể giảm đi, làm tăng thêm dòng chảy giống cây trồng vốn đã đáng kể. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những câu hỏi nghiêm trọng về sức khỏe và khả năng cung ứng thực tế của các tài nguyên này. Bộ sưu tập trong ngân hàng gen chứa nhiều bản sao không mong muốn, khiến các con số tổng hợp có vẻ lớn hơn thực tế. Thông tin về từng mẫu giống, đặc biệt là những mẫu found in situ, thường rất nghèo nàn, làm giảm tần suất và hiệu quả sử dụng cũng như lợi ích cuối cùng. Mặc dù liên kết giữa bảo tồn và sử dụng hiện vẫn chưa được thiết lập vững chắc, nó cần phải được củng cố.

#tài nguyên gen #nông nghiệp #thực phẩm #tính khả dụng toàn cầu #bảo tồn.
Phân Tích Đường Tăng Trưởng Tiềm Ẩn Về Cấu Trúc Của Hành Vi Hung Hãn, Sử Dụng Ma Túy Và Hành Vi Phạm Pháp, Cùng Với Mối Quan Hệ Của Chúng Trong Thời Gian Ở Thanh Thiếu Niên Đô Thị Và Nông Thôn Dịch bởi AI
Journal of Research on Adolescence - Tập 15 Số 2 - Trang 179-204 - 2005

Phân tích đường tăng trưởng tiềm ẩn đã được sử dụng để xem xét cấu trúc và mối quan hệ giữa hành vi hung hãn, việc sử dụng ma túy và hành vi phạm pháp trong giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên. Dữ liệu đã được thu thập trong năm đợt từ 667 học sinh tại ba trường trung học đô thị phục vụ chủ yếu cho cộng đồng người Mỹ gốc Phi, và từ một mẫu học sinh đa sắc tộc gồm 950 em tại bốn trường trung học nông thôn. Một bộ mô hình tập trung vào sự thay đổi trong hành vi cá nhân; bộ còn lại tập trung vào sự thay đổi trong yếu tố hành vi vấn đề toàn cầu. Các mô hình có các quỹ đạo tăng trưởng riêng biệt cho hành vi hung hãn, việc sử dụng ma túy và hành vi phạm pháp cho thấy sự phù hợp tốt nhất cho cả hai mẫu và tiết lộ mối quan hệ giữa mức độ hung hãn ban đầu và những thay đổi sau đó trong các hành vi khác. Con trai và con gái có sự khác biệt trong mức độ ban đầu của những hành vi này, nhưng không có sự khác biệt trong các mô hình thay đổi. Sự khác biệt trong quỹ đạo đường tăng trưởng được tìm thấy giữa các mẫu. Những phát hiện này có những ý nghĩa quan trọng đối với việc đánh giá và phòng ngừa các hành vi vấn đề ở thanh thiếu niên.

#hành vi hung hãn #sử dụng ma túy #hành vi phạm pháp #thanh thiếu niên #phân tích đường tăng trưởng tiềm ẩn
Tác động lâu dài của dụng cụ Herbst lên các cung răng và mối quan hệ của cung răng: Một nghiên cứu sinh trắc học Dịch bởi AI
Informa UK Limited - Tập 22 Số 2 - Trang 123-134 - 1995

Mục đích của nghiên cứu này là nhằm đánh giá một cách sinh trắc học tác động của dụng cụ Herbst đối với các cung răng và mối quan hệ giữa các cung răng sau khi điều trị và sau điều trị. Mẫu nghiên cứu bao gồm 53 bệnh nhân bị sai khớp Class II, phân loại 1 (33 bé trai và 20 bé gái) đã được điều trị bằng dụng cụ Herbst. Độ tuổi trung bình của bệnh nhân trước điều trị là 12,5 tuổi (SD = 1,2 tuổi). Các mẫu hàm răng đã được phân tích trước khi điều trị, sau điều trị, 6 tháng sau điều trị và vào cuối giai đoạn tăng trưởng (từ 5 đến 10 năm sau điều trị). Các biến số sau đã được đánh giá: mối quan hệ giữa các răng hàm trên và răng nanh, khoảng cách giữa các răng hàm, độ cắn chồng, chu vi các cung răng trên và dưới, và chiều rộng các cung răng giữa các răng hàm cũng như giữa các răng nanh. Trong quá trình điều trị, độ cắn chồng, khoảng cách giữa các răng hàm và mối quan hệ giữa các răng hàm đã được điều chỉnh quá mức trong hầu hết các trường hợp, trong khi mối quan hệ giữa các răng nanh đã được điều chỉnh về mức bình thường. Chu vi của các cung răng trên và dưới đã tăng lên trong quá trình điều trị, cũng như chiều rộng của các cung răng (răng hàm và răng nanh).

Về lâu dài (trung bình = 6,7 năm sau điều trị), điều trị bằng dụng cụ Herbst đã dẫn đến mối quan hệ giữa các răng hàm được điều chỉnh bình thường hoặc quá mức ở 79% trường hợp và mối quan hệ giữa các răng nanh bình thường ở 68% trường hợp. Tám mươi ba phần trăm đối tượng có độ cắn chồng là 4,5 mm hoặc ít hơn. Trong thời gian dài, chu vi các cung răng dường như tuân theo mẫu phát triển răng miệng bình thường. Sự gia tăng chiều rộng của các cung răng hàm và răng nanh ở trên trong quá trình điều trị vẫn duy trì khá ổn định trong khi chiều rộng của các cung răng giữa các răng hàm dưới dường như không bị tác động bởi điều trị.

#dụng cụ Herbst #sự phát triển răng miệng #sinh trắc học #sai khớp Class II #cung răng
HIỆU QUẢ CỦA DỤNG CỤ TỬ CUNG MIRENA TRONG ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ BỆNH LÝ LÀNH TÍNH CỦA TỬ CUNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Nhận xét hiệu quả giảm đau và giảm ra máu của DCTC Mirena trong điều trị một số bệnh lý lành tính của tử cung. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả tiến cứu trên những bệnh nhân có triệu chứng thống kinh và cường kinh được điều trị bằng DCTC Mirena, đánh giá hiệu quả sau 6 tháng sử dụng. Kết quả: Có 55 bệnh nhân được đặt DCTC Mirena để điều trị, điểm đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS giảm từ 5,9 ± 4,3 xuống 1,4 ± 2,4, trong đó cải thiện rõ rệt ở nhóm đau khủng khiếp và đau nặng. Số ngày ra máu trung bình thay đổi không có ý nghĩa thống kê (p=0,885), tuy nhiên tỷ lệ vô kinh tăng từ 3,6% lên 12,7% và ra máu kéo dài tăng từ 23,7% lên 40%. Số lượng máu mất giảm đáng kể, đặc biệt ở nhóm ra máu nhiều và trung bình. Kết luận: DCTC Mirena là phương pháp hiệu quả điều trị giảm đau và giảm ra máu trong các bệnh lý lành tính của tử cung. 
#Dụng cụ tử cung #Mirena #thống kinh #cường kinh
TỔNG HỢP TÁC DỤNG NGOÀI TRÁNH THAI CỦA CÁC BIỆN PHÁP TRÁNH THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 1 - 2021
Ngoài dụng cụ tử cung, các biện pháp tránh thai nội tiết đang ngày càng trở nên phổ biến không chỉ bởi hiệu quả tránh thai cao mà còn nhờ các tác dụng có lợi ngoài tránh thai. Do cơ chế hoạt động cũng như cách phân phối thuốc, các biện pháp tránh thai có hiệu quả trong điều trị một số vấn đề phụ khoa như đau bụng kinh (đặc biệt do lạc nội mạc tử cung) và cường kinh, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người phụ nữ. Thuốc tránh thai cũng giúp cải thiện các bệnh lý nội khoa liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt (đau đầu, hội chứng tiền kinh nguyệt, mụn trứng cá). Các nghiên cứu cũng cho thấy tác dụng bảo vệ của thuốc tránh thai trong hạn chế nguy cơ một số loại ung thư đặc biệt là ung thư buồng trứng và ung thư niêm mạc tử cung. Y văn cũng đề cập đến sự giảm nguy cơ ung thư niêm mạc tử cung và ung thư cổ tử cung của DCTC chứa đồng với độ tin cậy cao.
#Tránh thai nội tiết #dụng cụ tử cung #tác dụng ngoài tránh thai #đau bụng kinh #ung thư
SO SÁNH MỘT SỐ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ TỦY SỐNG - NGOÀI MÀNG CỨNG PHỐI HỢP VỚI GÂY TÊ TỦY SỐNG ĐƠN THUẦN ĐỂ MỔ LẤY THAI TRÊN SẢN PHỤ CÓ NGUY CƠ CAO TỤT HUYẾT ÁP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để vô cảm cho mổ lấy thai ở sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến hành trên 60 sản phụ có chỉ định mổ lấy thai chủ động, có một trong các yếu tố nguy cơ cao tụt huyết áp sau gây tê tuỷ sống: đa thai, đa ối, thai to, được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm để thực hiện 2 kỹ thuật vô cảm khác nhau: nhóm I gây tê tuỷ sống với liều bupivacaine theo chiều cao của bệnh nhân(cao <150cm: 7mg, từ 150 - 160cm: 8mg, >160cm: 8,5 mg) và nhóm II gây tê tuỷ sống liều 5mg bupivacaine phối hợp với tê ngoài màng cứng 10ml Lidocaine 1% with adrenaline 1: 200 000, cả hai nhóm đều được tiêm dưới nhện 30mcg fentanyl. Các thuốc co mạch sẽ được dùng điều chỉnh theo mạch, huyết áp của sản phụ. Các tác dụng không mong muốn trên mẹ và con được theo dõi liên tục trong 48 giờ sau mổ. Kết quả: Phương pháp gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp có tỷ lệ nôn, buồn nôn là 6,67% so với 23,3% ở nhóm gây tê tủy sống đơn thuần (p < 0,05). Tỷ lệ ngứa, rét run ở nhóm gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp  là 23,3% và 13,3% so với 26,6% và 26,6% ở nhóm gây tê tủy sống đơn thuần; không gặp bệnh nhân nào bị suy hô hấp, an thần sâu, đau đầu, bí tiểu ở cả hai nhóm. Điểm Apgar phút thứ nhất và phút thứ 5 của trẻ sơ sinh ở hai nhóm đều > 8, không có sự khác biệt). Không gặp các biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con. Kết luận: Phương pháp gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp ít gặp nôn, buồn nôn hơn so với phương pháp gây tê tủy sống đơn thuần. Các tác dụng không mong muốn khác trên mẹ và con không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Không gặp các biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con.
#Mổ lấy thai #gây tê tuỷ sống #gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp #tác dụng không mong muốn
Đánh giá tác dụng trên cuộc chuyển dạ và các tác dụng không mong muốn khác của gây tê cạnh cổ tử cung bằng bupivacain giảm đau trong chuyển dạ đẻ
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng trên cuộc chuyển dạ và các tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê cạnh cổ tử cung bằng bupivacain 0,25% giảm đau trong chuyển dạ đẻ. Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng trên 120 sản phụ chuyển dạ đẻ con so, chia làm hai nhóm bằng nhau: Nhóm nghiên cứu: Các sản phụ được gây tê cạnh cổ tử cung bằng 10ml bupivacain 0,25%; nhóm chứng: Các sản phụ được giảm đau bằng thuốc giảm đau đường toàn thân (dolargan 50mg). Kết quả: Thời gian cổ tử cung từ 4 - 5cm đến khi mở hết là 130,7 ± 43,2 phút ở nhóm gây tê cạnh cổ tử cung thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với 270,6 ± 70,3 phút ở nhóm chứng. Tần số cơn co tử cung và nhịp tim thai không có sự khác biệt so với nhóm chứng. Không có bệnh nhân nào bị ức chế vận động, tỷ lệ nôn, buồn nôn thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (0% so với 11,67%), tỷ lệ bí tiểu không có sự khác biệt so với nhóm chứng (3,3% so với 6,7%). Kết luận: Gây tê cạnh cổ tử cung giảm đau trong chuyển dạ đẻ bằng bupivacain 0,25% làm cổ tử cung mở nhanh hơn, không ảnh hưởng đến cơn co tử cung và nhịp tim thai. Phương pháp này không gây ức chế vận động, tỷ lệ nôn, buồn nôn giảm so với nhóm chứng, tỷ lệ bí tiểu không khác biệt so với nhóm chứng.
#Gây tê cạnh cổ tử cung #giảm đau trong chuyển dạ đẻ #bupivacain #tác dụng không mong muốn
30. Viêm phúc mạc sau tháo dụng cụ tử cung ở phụ nữ mãn kinh: Báo cáo ca bệnh hiếm gặp
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 168 Số 7 - Trang 270-276 - 2023
Thủng tử cung có tần suất khoảng 0,01% khi lấy dụng cụ tử cung qua đường âm đạo. Tai biến này có thể kèm theo thủng ruột và bàng quang. Chúng tôi thông báo một bệnh nhân nữ 69 tuổi có tiền sử đặt dụng cụ tử cung 30 năm. Người bệnh vào viện vì đau bụng dưới rốn kèm ra dịch hồng ở âm đạo sau thủ thuật tháo dụng cụ tử cung. Bụng chướng, ấn đau và có phản ứng thành bụng. Chụp cắt lớp vi tính có hình ảnh dịch khí tự trong ổ bụng và dịvật xuyên thủng đáy tử cung. Người bệnh được mổ mở cấp cứu cắt tử cung bán phần, khâu lỗ thủng ruột non, rửa sạch ổ bụng. Sau mổ 6 ngày, bệnh nhân được phẫu thuật lại đưa 2 đầu ruột ra ngoài do bục lỗ khâu ruột non. Quá trình hậu phẫu ổn định, người bệnh được xuất viện sau mổ lần thứ hai mười ngày. Kết luận: tai biến thủng ruộtnon, thủng tử cung gây viêm phúc mạc sau tháo dụng cụ để lâu trong buồng tử cung rất hiếm gặp. Trong trường hợp không thể loại bỏ nó, nên theo dõi lâm sàng chặt chẽ, nội soi buồng tử cung hoặc cắt tử cung chủ động.
#Dụng cụ tử cung #Thủng tử cung #thủng ruột #viêm phúc mạc #mãn kinh
So sánh các tác dụng không mong muốn trên mẹ và con của giảm đau trong chuyển dạ bằng gây tê ngoài màng cứng do sản phụ tự điều khiển với ropivacain ở các nồng độ khác nhau phối hợp với fentanyl
Mục tiêu: So sánh các tác dụng không mong muốn trên mẹ và con của giảm đau trong chuyển dạ bằng gây tê ngoài màng cứng do sản phụ tự điều khiển (PCEA) với ropivacain ở các nồng độ 0,075%; 0,1% và 0,125% phối hợp với fentanyl 2mcg/ml. Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có so sánh trên 90 sản phụ chuyển dạ đẻ được giảm đau bằng gây tê ngoài màng cứng do sản phụ tự điều khiển, chia thành ba nhóm bằng nhau, sử dụng ropivacain ở các nồng độ 0,075%; 0,1% và 0,125% phối hợp với fentanyl 2mcg/ml. Kết quả: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian chuyển dạ, cường độ, tần số cơn co tử cung, tình trạng tim thai và Apgar sơ sinh giữa ba nhóm. Cả ba nồng độ thuốc tê này đều không ảnh hưởng đến tuần hoàn, hô hấp, cơn co tử cung của sản phụ, tình trạng thai nhi và sơ sinh. Nhóm ropivacain 0,125% có tỷ lệ phản xạ mót rặn ở mức trung bình là 26,7% (so với 10% của hai nhóm còn lại); khả năng rặn đẻ mức trung bình chiếm 40% (so với 6,7% của hai nhóm còn lại); tỷ lệ phong bế vận động ở mức Bromage độ 1 là 16,7% (so với 0% ở nhóm ropivacain 0,075% và 3,3% nhóm ropivacain 0,1%). Không gặp trường hợp nào bị tụt huyết áp > 20%, mạch chậm < 60 lần/phút, SpO2 < 90% hoặc bị nôn hay đau đầu sau gây tê ngoài màng cứng ở cả ba nhóm nghiên cứu. Tỷ lệ các tác dụng không mong muốn khác: Ngứa, đau lưng, rét run, bí tiểu… thấp và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở cả 3 nhóm. Kết luận: Giảm đau trong chuyển dạ bằng gây tê ngoài màng cứng do sản phụ tự điều khiển (PCEA) với ropivacain ở các nồng độ 0,075%; 0,1% và 0,125% phối hợp với fentanyl 2mcg/ml không có sự khác biệt về cơn co tử cung, tình trạng tim thai, chỉ số Apgar sơ sinh và các tác dụng không mong muốn khác như: Rét run, đau lưng, bí tiểu… Tuy nhiên, nhóm ropivacain 0,125% có làm giảm cảm giác mót rặn và khả năng rặn đẻ, tăng tỷ lệ phong bế vận động hai chi dưới so với hai nhóm còn lại (p<0,05).
#Tác dụng không mong muốn #giảm đau trong chuyển dạ #gây tê ngoài màng cứng do sản phụ tự điều khiển #ropivacain #fentanyl
SO SÁNH MỘT SỐ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA GÂY TÊ CƠ VUÔNG THẮT LƯNG VỚI GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ NGANG BỤNG DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM ĐỂ GIẢM ĐAU SAU MỔ CẮT TỬ CUNG HOÀN TOÀN ĐƯỜNG BỤNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 1 - 2021
Mục tiêu: So sánh một  số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng (QL block) với gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng (TAP block) dưới hướng dẫn siêu âm để giảm đau sau mổ cắt tử cung hoàn toàn đường bụng. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: 60 bệnh nhân được gây tê tuỷ sống để phẫu thuật cắt tử cung hoàn toàn đường bụng, sau mổ được phân bố ngẫu nhiên vào hai nhóm bằng nhau để giảm đau sau mổ bằng QL block hai bên hoặc TAP block hai bên dưới hướng dẫn của siêu âm, sử dụng ropivacain 0,25% liều 0,3ml/kg ở mỗi bên. Theo dõi liên tục các tác dụng không mong  muốn của hai phương pháp này trong 24 giờ đầu sau mổ. Kết quả: Tỷ lệ nôn, buồn nôn ở nhóm QL block là 3,33% so với nhóm TAP block là 6,67%, tỷ lệ ngứa ở hai nhóm là 3,33%. Không gặp trường hợp nào bị tụ máu thành bụng, nhiễm khuẩn vị trí gây tê, tổn thương cơ quan trong ổ bụng hay ngộ độc thuốc tê ở cả hai nhóm nghiên cứu. Kết luận: Tác dụng không mong muốn của gây tê cơ vuông thắt lưng tương đương với gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng dưới hướng dẫn của siêu âm để giảm đau sau mổ cắt tử cung hoàn toàn đường bụng. Không gặp các tai biến nặng nề của cả hai phương pháp này.
#Gây tê cơ vuông thắt lưng #gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng #cắt tử cung hoàn toàn đường bụng #tác dụng không mong muốn
Tổng số: 39   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4