Dụng cụ tử cung là gì? Các công bố khoa học về Dụng cụ tử cung

Dụng cụ tử cung là các công cụ hoặc thiết bị y tế được sử dụng trong các thủ tục liên quan đến tử cung, như chẩn đoán bệnh, điều trị và phẫu thuật. Các dụng cụ ...

Dụng cụ tử cung là các công cụ hoặc thiết bị y tế được sử dụng trong các thủ tục liên quan đến tử cung, như chẩn đoán bệnh, điều trị và phẫu thuật. Các dụng cụ này bao gồm các loại máy siêu âm, cản ánh sáng, cụm khám tử cung, bộ lau, ống nội soi, và các thiết bị hút, châm tia laser, và cắt bỏ vi khuẩn.
Dụng cụ tử cung gồm một loạt các thiết bị y tế và công cụ được sử dụng để kiểm tra, điều trị và phẫu thuật liên quan đến tử cung. Dưới đây là một số chi tiết về một số dụng cụ tử cung phổ biến:

1. Máy siêu âm: Máy siêu âm tử cung được sử dụng để tạo ra hình ảnh bên trong tử cung, giúp bác sĩ xác định kích thước và cấu trúc của tử cung, các vết thương, khối u, polyp và các vấn đề khác.

2. Cản ánh sáng: Cản ánh sáng là một thiết bị màu đỏ nhỏ được sử dụng để xem kỹ hơn các vùng có vấn đề trong tử cung. Nó thường được sử dụng để phát hiện và chẩn đoán các dị tật và ung thư tử cung.

3. Cụm khám tử cung: Cụm khám tử cung gồm một cây thẳng được sử dụng để đặt vào tử cung qua âm đạo để kiểm tra và thu thập mẫu từ bên trong tử cung cho các xét nghiệm khác nhau, như nhồi máu tử cung, vi khuẩn và xét nghiệm giò.

4. Ống nội soi: Đây là một thiết bị dẻo và uốn cong được sử dụng để xem bên trong tử cung. Nó thường được đặt qua âm đạo và hiển thị hình ảnh lên một màn hình nhỏ để bác sĩ có thể xem và làm rõ các vấn đề trong tử cung.

5. Thiết bị hút: Thiết bị hút được sử dụng để loại bỏ các cục máu, dịch và mô tử cung không cần thiết hoặc bị tổn thương. Đây thường là một phương pháp liên quan đến các quá trình như hút nút tử cung (hút chảy máu dịch tử cung) hoặc hút bào thai trong quá trình phá thai.

6. Châm tia laser và cắt bỏ vi khuẩn: Trong một số trường hợp, việc chìa laser vào tử cung được sử dụng để loại bỏ các mô ung thư hoặc cắt bỏ vi khuẩn tử cung không cần thiết.

Các dụng cụ này được sử dụng trong các quá trình chẩn đoán, điều trị và phẫu thuật tử cung để kiểm tra và điều trị các vấn đề liên quan đến sức khỏe nữ và tử cung. Tuy nhiên, việc sử dụng dụng cụ tử cung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và được quyết định bởi bác sĩ chuyên khoa.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "dụng cụ tử cung":

HIỆU QUẢ CỦA DỤNG CỤ TỬ CUNG MIRENA TRONG ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ BỆNH LÝ LÀNH TÍNH CỦA TỬ CUNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Nhận xét hiệu quả giảm đau và giảm ra máu của DCTC Mirena trong điều trị một số bệnh lý lành tính của tử cung. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả tiến cứu trên những bệnh nhân có triệu chứng thống kinh và cường kinh được điều trị bằng DCTC Mirena, đánh giá hiệu quả sau 6 tháng sử dụng. Kết quả: Có 55 bệnh nhân được đặt DCTC Mirena để điều trị, điểm đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS giảm từ 5,9 ± 4,3 xuống 1,4 ± 2,4, trong đó cải thiện rõ rệt ở nhóm đau khủng khiếp và đau nặng. Số ngày ra máu trung bình thay đổi không có ý nghĩa thống kê (p=0,885), tuy nhiên tỷ lệ vô kinh tăng từ 3,6% lên 12,7% và ra máu kéo dài tăng từ 23,7% lên 40%. Số lượng máu mất giảm đáng kể, đặc biệt ở nhóm ra máu nhiều và trung bình. Kết luận: DCTC Mirena là phương pháp hiệu quả điều trị giảm đau và giảm ra máu trong các bệnh lý lành tính của tử cung. 
#Dụng cụ tử cung #Mirena #thống kinh #cường kinh
TỔNG HỢP TÁC DỤNG NGOÀI TRÁNH THAI CỦA CÁC BIỆN PHÁP TRÁNH THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 1 - 2021
Ngoài dụng cụ tử cung, các biện pháp tránh thai nội tiết đang ngày càng trở nên phổ biến không chỉ bởi hiệu quả tránh thai cao mà còn nhờ các tác dụng có lợi ngoài tránh thai. Do cơ chế hoạt động cũng như cách phân phối thuốc, các biện pháp tránh thai có hiệu quả trong điều trị một số vấn đề phụ khoa như đau bụng kinh (đặc biệt do lạc nội mạc tử cung) và cường kinh, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người phụ nữ. Thuốc tránh thai cũng giúp cải thiện các bệnh lý nội khoa liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt (đau đầu, hội chứng tiền kinh nguyệt, mụn trứng cá). Các nghiên cứu cũng cho thấy tác dụng bảo vệ của thuốc tránh thai trong hạn chế nguy cơ một số loại ung thư đặc biệt là ung thư buồng trứng và ung thư niêm mạc tử cung. Y văn cũng đề cập đến sự giảm nguy cơ ung thư niêm mạc tử cung và ung thư cổ tử cung của DCTC chứa đồng với độ tin cậy cao.
#Tránh thai nội tiết #dụng cụ tử cung #tác dụng ngoài tránh thai #đau bụng kinh #ung thư
Nhận xét bệnh cảnh lâm sàng của những bệnh nhân có dụng cụ tử cung lạc chỗ tại bệnh viện phụ sản trung ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 2A - Trang 32-34 - 2015
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng của những trường hợp có dụng cụ tử cung lạc chỗ tại Bệnh viện PSTW. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang bằng phương pháp hồi cứu số liệu trên hồ sơ bệnh án có sẵn. Kết quả nghiên cứu: Loại DCTC lạc chỗ : 71,5% là TCu, 25,5% là DANA. Có 16% bệnh nhân DCTC lạc chỗ là được phát hiện trong tuần đầu tiên sau đặt; Những trường hợp này khi mổ ra đều có thủng tử cung và đều được đặt tại trạm y tế xã. 21 % bệnh nhân DCTC lạc chỗ là được phát hiện trong tháng đầu tiên sau đặt. 100% các trường hợp phát hiện dụng cụ tử cung lạc chỗ trong tháng đầu tiên sau đặt đều có các triệu chứng cơ năng như: ra máu âm đạo bất thường, đau bụng hạ vị…. Nếu DCTC lạc chỗ được phát hiện sau 6 tháng sau đặt thì 95% là không có các triệu trứng cơ năng. 60% trường hợp có vòng DANA lạc chỗ là ở trong ổ bụng, ở tiểu khung là 30%; Ngược lại đối với vòng TCu thì 43% là lạc trong tiểu khung và 14% là trong ổ bụng.
#dụng cụ tử cung lạc chỗ
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN QUÁ SẢN NIÊM MẠC TỬ CUNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 513 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân quá sản niêm mạc tử cung điển hình được điều trị bằng dụng cụ tử cung Mirena tại bệnh viện Phụ Sản Hà Nội. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang tiến cứu. Kết quả: Tuổi trung bình 41,3 ± 4,4 tuổi, 100% bệnh nhân biểu hiện rong kinh rong huyết trong đó rong kinh chiếm 67,7%. Niêm mạc tử cung dày trên 9 mm chiếm 89,3%. Kết luận: Tất cả bệnh nhân có triệu chứng rong kinh, rong huyết và niêm mạc tử cung chủ yếu dày trên 9mm.
#Quá sản niêm mạc tử cung #rong kinh #dụng cụ tử cung minera
ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG LÊN TUẦN HOÀN, HÔ HẤP VÀ MỘT SỐ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA GIẢM ĐAU SAU MỔ CẮT TỬ CUNG HOÀN TOÀN ĐƯỜNG BỤNG BẰNG GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ NGANG BỤNG DƯỚI HƯỚNG DẪN CỦA SIÊU ÂM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng lên tuần hoàn, hô hấp và một số tác dụng không mong muốn khác của giảm đau sau mổ cắt tử cung hoàn toàn đường bụng bằng phương pháp gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng (TAP block) với ropivacain 0,25% dưới hướng dẫn của siêu âm. Đối tượng, phương pháp: 60 bệnh nhân được phẫu thuật cắt tử cung hoàn toàn đường bụng, vô cảm bằng gây tê tủy sống, sau mổ được phân bố ngẫu nhiên vào hai nhóm giảm đau sau mổ bằng 2 phương pháp: Nhóm nghiên cứu, bệnh nhân được gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng dưới hướng dẫn của siêu âm sử dụng 0,75 mg/kg ropivacain 0,25% mỗi bên (nhóm TAP) sau đó phối hợp với PCA morphin tĩnh mạch. Nhóm chứng là nhóm không được gây tê TAP block để giảm đau mà chỉ sử dụng PCA morphin tĩnh mạch đơn thuần (nhóm chứng). Các thông số nghiên cứu được theo dõi liên tục 24 giờ đầu sau mổ gồm: Ảnh hưởng đến tuần hoàn và hô hấp, độ an thần, nôn, buồn nôn, bí tiểu, ngứa…. Kết quả: Không có sự khác biệt về các chỉ số tuần hoàn, hô hấp của các bệnh nhân ở hai nhóm. Tỷ lệ nôn, buồn nôn của nhóm TAP block thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng (13,33% so với 30%; p < 0,05). Tỷ lệ bệnh nhân có mức an thần độ I, II của nhóm TAP block cũng thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng (30% so với 63,3%). Tỷ lệ ngứa, bí tiểu không có sự khác biệt giữa hai nhóm (3,3% và 6,7% so với 6,7% và 6,7%). Kết luận: Gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng hai bên bằng ropivacain 0,25%, dưới hướng dẫn của siêu âm không ảnh hưởng đến tuần hoàn, hô hấp của bệnh nhân nhưng làm giảm tỷ lệ nôn, buồn nôn và tỷ lệ an thần độ I, độ II so với nhóm chứng.
#Phẫu thuật cắt tử cung hoàn toàn đường bụng #TAP block #Ropivacain #tác dụng không mong muốn
30. Viêm phúc mạc sau tháo dụng cụ tử cung ở phụ nữ mãn kinh: Báo cáo ca bệnh hiếm gặp
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 168 Số 7 - Trang 270-276 - 2023
Thủng tử cung có tần suất khoảng 0,01% khi lấy dụng cụ tử cung qua đường âm đạo. Tai biến này có thể kèm theo thủng ruột và bàng quang. Chúng tôi thông báo một bệnh nhân nữ 69 tuổi có tiền sử đặt dụng cụ tử cung 30 năm. Người bệnh vào viện vì đau bụng dưới rốn kèm ra dịch hồng ở âm đạo sau thủ thuật tháo dụng cụ tử cung. Bụng chướng, ấn đau và có phản ứng thành bụng. Chụp cắt lớp vi tính có hình ảnh dịch khí tự trong ổ bụng và dịvật xuyên thủng đáy tử cung. Người bệnh được mổ mở cấp cứu cắt tử cung bán phần, khâu lỗ thủng ruột non, rửa sạch ổ bụng. Sau mổ 6 ngày, bệnh nhân được phẫu thuật lại đưa 2 đầu ruột ra ngoài do bục lỗ khâu ruột non. Quá trình hậu phẫu ổn định, người bệnh được xuất viện sau mổ lần thứ hai mười ngày. Kết luận: tai biến thủng ruộtnon, thủng tử cung gây viêm phúc mạc sau tháo dụng cụ để lâu trong buồng tử cung rất hiếm gặp. Trong trường hợp không thể loại bỏ nó, nên theo dõi lâm sàng chặt chẽ, nội soi buồng tử cung hoặc cắt tử cung chủ động.
#Dụng cụ tử cung #Thủng tử cung #thủng ruột #viêm phúc mạc #mãn kinh
Đánh giá tác dụng trên cuộc chuyển dạ và các tác dụng không mong muốn khác của gây tê cạnh cổ tử cung bằng bupivacain giảm đau trong chuyển dạ đẻ
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng trên cuộc chuyển dạ và các tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê cạnh cổ tử cung bằng bupivacain 0,25% giảm đau trong chuyển dạ đẻ. Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng trên 120 sản phụ chuyển dạ đẻ con so, chia làm hai nhóm bằng nhau: Nhóm nghiên cứu: Các sản phụ được gây tê cạnh cổ tử cung bằng 10ml bupivacain 0,25%; nhóm chứng: Các sản phụ được giảm đau bằng thuốc giảm đau đường toàn thân (dolargan 50mg). Kết quả: Thời gian cổ tử cung từ 4 - 5cm đến khi mở hết là 130,7 ± 43,2 phút ở nhóm gây tê cạnh cổ tử cung thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với 270,6 ± 70,3 phút ở nhóm chứng. Tần số cơn co tử cung và nhịp tim thai không có sự khác biệt so với nhóm chứng. Không có bệnh nhân nào bị ức chế vận động, tỷ lệ nôn, buồn nôn thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (0% so với 11,67%), tỷ lệ bí tiểu không có sự khác biệt so với nhóm chứng (3,3% so với 6,7%). Kết luận: Gây tê cạnh cổ tử cung giảm đau trong chuyển dạ đẻ bằng bupivacain 0,25% làm cổ tử cung mở nhanh hơn, không ảnh hưởng đến cơn co tử cung và nhịp tim thai. Phương pháp này không gây ức chế vận động, tỷ lệ nôn, buồn nôn giảm so với nhóm chứng, tỷ lệ bí tiểu không khác biệt so với nhóm chứng.
#Gây tê cạnh cổ tử cung #giảm đau trong chuyển dạ đẻ #bupivacain #tác dụng không mong muốn
Hiệu quả của dụng cụ tử cung chứa Levonorgestrel trong điều trị rong kinh - cường kinh và đau bụng kinh do lạc nội mạc tử cung
Tạp chí Phụ Sản - Tập 11 Số 4 - Trang 56 - 59 - 2013
Rong kinh-cường kinh xảy ra khá phổ biến ở phụ nữ tuổi sinh đẻ. Đau bụng kinh là triệu chứng thường gặp ở phụ nữ có lạc nội mạc tử cung. Dụng cụ tử cung phóng thích levonorgestrel (DCTC-L) là một lựa chọn điều trị mới trong bệnh lý rong kinh-cường kinh và đau bụng kinh do lạc nội mạc tử cung. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của DCTC-L trong điều trị rong kinh-cường kinh và đau bụng kinh trong lạc nội mạc tử cung. Đối tượng và phương pháp: Báo cáo loạt các trường hợp được chỉ định đặt DCTC-L do rong kinh-cường kinh và đau bụng kinh do lạc NMTC tại khoa Kế hoạch Gia đình, bệnh viện Từ Dũ từ tháng 3/2011 đến tháng 02/ 2013. Kết quả: Sau 12 tháng đặt DCTC-L, số ngày kinh trung bình giảm 8,3 ngày (p
#Dụng cụ tử cung phóng thích levonorgestrel #rong kinh #lạc nội mạc tử cung
So sánh các tác dụng không mong muốn trên mẹ và con của giảm đau trong chuyển dạ bằng gây tê ngoài màng cứng do sản phụ tự điều khiển với ropivacain ở các nồng độ khác nhau phối hợp với fentanyl
Mục tiêu: So sánh các tác dụng không mong muốn trên mẹ và con của giảm đau trong chuyển dạ bằng gây tê ngoài màng cứng do sản phụ tự điều khiển (PCEA) với ropivacain ở các nồng độ 0,075%; 0,1% và 0,125% phối hợp với fentanyl 2mcg/ml. Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có so sánh trên 90 sản phụ chuyển dạ đẻ được giảm đau bằng gây tê ngoài màng cứng do sản phụ tự điều khiển, chia thành ba nhóm bằng nhau, sử dụng ropivacain ở các nồng độ 0,075%; 0,1% và 0,125% phối hợp với fentanyl 2mcg/ml. Kết quả: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian chuyển dạ, cường độ, tần số cơn co tử cung, tình trạng tim thai và Apgar sơ sinh giữa ba nhóm. Cả ba nồng độ thuốc tê này đều không ảnh hưởng đến tuần hoàn, hô hấp, cơn co tử cung của sản phụ, tình trạng thai nhi và sơ sinh. Nhóm ropivacain 0,125% có tỷ lệ phản xạ mót rặn ở mức trung bình là 26,7% (so với 10% của hai nhóm còn lại); khả năng rặn đẻ mức trung bình chiếm 40% (so với 6,7% của hai nhóm còn lại); tỷ lệ phong bế vận động ở mức Bromage độ 1 là 16,7% (so với 0% ở nhóm ropivacain 0,075% và 3,3% nhóm ropivacain 0,1%). Không gặp trường hợp nào bị tụt huyết áp > 20%, mạch chậm < 60 lần/phút, SpO2 < 90% hoặc bị nôn hay đau đầu sau gây tê ngoài màng cứng ở cả ba nhóm nghiên cứu. Tỷ lệ các tác dụng không mong muốn khác: Ngứa, đau lưng, rét run, bí tiểu… thấp và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở cả 3 nhóm. Kết luận: Giảm đau trong chuyển dạ bằng gây tê ngoài màng cứng do sản phụ tự điều khiển (PCEA) với ropivacain ở các nồng độ 0,075%; 0,1% và 0,125% phối hợp với fentanyl 2mcg/ml không có sự khác biệt về cơn co tử cung, tình trạng tim thai, chỉ số Apgar sơ sinh và các tác dụng không mong muốn khác như: Rét run, đau lưng, bí tiểu… Tuy nhiên, nhóm ropivacain 0,125% có làm giảm cảm giác mót rặn và khả năng rặn đẻ, tăng tỷ lệ phong bế vận động hai chi dưới so với hai nhóm còn lại (p<0,05).
#Tác dụng không mong muốn #giảm đau trong chuyển dạ #gây tê ngoài màng cứng do sản phụ tự điều khiển #ropivacain #fentanyl
SO SÁNH MỘT SỐ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ TỦY SỐNG - NGOÀI MÀNG CỨNG PHỐI HỢP VỚI GÂY TÊ TỦY SỐNG ĐƠN THUẦN ĐỂ MỔ LẤY THAI TRÊN SẢN PHỤ CÓ NGUY CƠ CAO TỤT HUYẾT ÁP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để vô cảm cho mổ lấy thai ở sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến hành trên 60 sản phụ có chỉ định mổ lấy thai chủ động, có một trong các yếu tố nguy cơ cao tụt huyết áp sau gây tê tuỷ sống: đa thai, đa ối, thai to, được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm để thực hiện 2 kỹ thuật vô cảm khác nhau: nhóm I gây tê tuỷ sống với liều bupivacaine theo chiều cao của bệnh nhân(cao <150cm: 7mg, từ 150 - 160cm: 8mg, >160cm: 8,5 mg) và nhóm II gây tê tuỷ sống liều 5mg bupivacaine phối hợp với tê ngoài màng cứng 10ml Lidocaine 1% with adrenaline 1: 200 000, cả hai nhóm đều được tiêm dưới nhện 30mcg fentanyl. Các thuốc co mạch sẽ được dùng điều chỉnh theo mạch, huyết áp của sản phụ. Các tác dụng không mong muốn trên mẹ và con được theo dõi liên tục trong 48 giờ sau mổ. Kết quả: Phương pháp gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp có tỷ lệ nôn, buồn nôn là 6,67% so với 23,3% ở nhóm gây tê tủy sống đơn thuần (p < 0,05). Tỷ lệ ngứa, rét run ở nhóm gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp  là 23,3% và 13,3% so với 26,6% và 26,6% ở nhóm gây tê tủy sống đơn thuần; không gặp bệnh nhân nào bị suy hô hấp, an thần sâu, đau đầu, bí tiểu ở cả hai nhóm. Điểm Apgar phút thứ nhất và phút thứ 5 của trẻ sơ sinh ở hai nhóm đều > 8, không có sự khác biệt). Không gặp các biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con. Kết luận: Phương pháp gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp ít gặp nôn, buồn nôn hơn so với phương pháp gây tê tủy sống đơn thuần. Các tác dụng không mong muốn khác trên mẹ và con không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Không gặp các biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con.
#Mổ lấy thai #gây tê tuỷ sống #gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp #tác dụng không mong muốn
Tổng số: 21   
  • 1
  • 2
  • 3